Welcome to Chào cuộc sống
Ta là ai


Deepack Chopra
Chúng ta hãy cùng nghiên cứu mô hình vừa rất cổ điển vừa rất hiện đại. Đó là mô hình cho rằng cơ thể con người không phải là một kết cấu có tổ chức được cố định trong không gian và thời gian. Cơ thể con người giống như một dòng sông đang chảy, có năng lượng, thông tin và cả sự thông minh. Nó có một vòng luân chuyển điều khiển có thể ảnh hưởng tới phát triển và biểu hiện của chính nó. Nó có khả năng học hỏi từ những sai lầm và khả năng đưa ra sự lựa chọn. Cơ thể con người quả thật là một dòng sông của năng lượng và thông tin – “thực sự là bạn”. Nhưng sự thực là bạn không thể hai lần bước vào mà vẫn với cùng một con người bằng xương bằng thịt đó, như bạn không thể hai lần tắm trên một dòng sông, bởi vì mỗi khoảnh khắc tồn tại của bạn là bạn đang làm mới cơ thể một cách dễ dàng hơn và tự nhiên hơn cả khi bạn thay quần áo. Nói về mặt ngữ nghĩa, cơ thể vật lý mà bạn sử dụng để rời khỏi căn phòng không phải là cơ thể mà bạn bước vào trước đó
. Thông qua một loạt các quá trình sinh lý, bạn làm mới cơ thể mình mỗi giây bạn tồn tại. Ví dụ, đơn giản như ngay trong hành vi thở, mỗi nhịp thở chúng ta hít vào chứa từ 10 lên đến 21 nguyên tử từ vũ trụ. Đó là một lượng rất lớn các nguyên liệu thô đến từ mọi nơi và kết thúc ở các tế bào tim, tế bào não và tế bào thận. Với mỗi hơi thở chúng ta hít vào, chúng ta đang thở ra từ 10 đến 21 nguyên tử có nguồn gốc từ mỗi tế bào của cơ thể chúng ta. Vì vậy, chúng ta thực sự đang thở ra những linh tinh của các mô tim, thận và não của chúng ta, lại nói một cách ngữ nghĩa, chúng ta đều luôn luôn chia sẻ các cơ quan với nhau. Nhà thơ vĩ đại người Mỹ là Walt Whitman đã từng nói: “Mỗi nguyên tử thuộc về bạn cũng như thuộc về tôi”. Điều này rõ ràng không phải là một phép ẩn dụ của thơ ca, mà là thực tế của sinh lý học.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành tính toán chính xác dựa trên các nghiên cứu đồng vị kích hoạt phóng xạ và đã đưa ra giả thuyết là ngay tại thời điểm này, trong các cơ thể vật lý của chúng ta, chúng ta có thể có hàng triệu nguyên tử đã tường ở trong cơ thể của Chúa Jesu, của Đức mẹ đồng trinh Maria, hay của Đức phật; của Leonardo da Vinci hay Michelangelo; của Mahatma Gandi hay của Mẹ Teresa; của Saddam Hussein hay của ai khác mà bạn nghĩ ra. Trong vòng ba tuần qua, hàng nghìn triệu triệu nguyên tử luân chuyển qua các cơ thể của chúng ta thì đã luân chuyển qua các cơ thể của bất kỳ sinh vật sống nào trên hành tinh này. Chúng ta có thể nghĩ tới một cái cây ở châu Phi, một con sóc ở Siberia, một người nông dân ở Trung Quốc và chúng ta có nguyên liệu thô bên trong cơ thể của chúng ta đã luân chuyển trong cái cây hay con sóc hay người nông dân đó cách đây ba tuần. Trong vòng chưa đầy một năm, chúng ta thay thế 90% cơ thể vật lý của chúng ta. Vì thế, quả thực là chúng ta tạo ra một lá gan mới cứ mỗi sáu tuần ở mức độ nguyên tử. Một bộ da mới một tháng một lần. Một đường ruột mới cứ mỗi năm ngày. Một bộ xương mới – dường như là rất cứng, chắc và vĩnh cửu, nhưng nó là một kết cấu năng động – và lại nói một cách ngữ nghĩa, chúng ta hay thế bộ xương này cứ mỗi lần ba tháng. Ngay cả nguyên liệu thô cấu thành nên các AND của chúng ta, các AND mà lưu giữ các ký ức của hàng triệu năm tiến hóa, đến và đi cứ mỗi sáu tuần, hầu như giống loài chim di trú. Như vậy, nếu bạn nghĩ bạn là cơ thể vật chất của mình, thì theo như mô hình này, bạn đã lâm và thế khó xử. Bạn đang nói đến cơ thể nào? Cơ thể vật lý là các nguyên tố được tái sinh – dất, nước và không khí được tái sinh – có ý nghĩa trong tất cả các hình thức cơ học lượng tử, thể khí, thể lỏng và thể rắn. Nó đến rồi đi chỉ trong nháy mắt.
 Liệu có thật là bộ xương người tự thay thế cứ sau ba tháng hay không? Thế thì tại sao vẫn bị chứng viêm khớp? Nếu thực sự các mạch máu tự thay thế cứ mỗi sáu đến tám tuần thì tại sao chúng vẫn bị tắc? Câu trả lời đưa ra là, thông qua việc quy định của chính chúng ta, chúng ta sinh ra các xung lực năng lượng và thông tin tương tự, không chỉ đưa đến các kết quả hành vi tương tự, mà còn dẫn đến các quá trình sinh hóa tương tự, và các quá trình sinh hóa này chịu ảnh hưởng của ý thức, ký ức và các phản xạ có điều kiện của chúng ta.
Theo mô hình Vedic, cơ thể vật lý của chúng ta chỉ là nơi mà ký ức và giấc mơ của chúng ta gọi là nhà ở thời điểm hiện tại. Có lẽ như chúng ta nhầm lẫn giữa con ngựa với người cưỡi ngựa, và các phân tử ở trong chúng ta đó không tạo nên các con người thực chất mà sử dụng các phân tử đó để biểu hiện bản thân.
 Một máy fax, một chiếc đài, hay một chiếc ti vi, hay một cái máy vi tính thì tất cả những công nghệ này đều dựa trên một cơ sở rất đơn giản: bản chất thiết yếu của thế giới vật chất không phải là vật chất. Những chất liệu cần thiết của vũ trụ lại là phi chất liệu. Một nguyên tử, đơn vị cơ bản của vật chất, không phải là một thực thể cứng chắc, mà là một hệ thống phân tầng của các trạng thái thông tin và năng lượng trong một khoảng không rộng lớn. Ngày nay, nếu bạn tới gặp một nhà vật lý lượng tử và hỏi người đó xem bản chất thực sự của cơ thể con người là gì thì người đó sẽ trả lời bạn điều tương tự. Cơ thể con người được tạo ra từ các nguyên tử. Các nguyên tử lần lượt được tạo ra từ các hạt hạ nguyên tử chuyển động với tốc độ ánh sáng xung quanh khoảng không trống trải rộng lớn. Các hạt hạ nguyên tử này không phải là những thứ vật chất, chúng là các dao động của năng lượng và thông tin trong một khoảng không rộng lớn. Nhìn qua con mắt của một nhà vật lý, cơ thể con người được cân đối với khoảng không gian như không gian giữa thiên hà. Nếu bạn có thể nhìn thấy cơ thể con người như thật – không qua các trải nghiệm giác quan do con người tạo ra mà chúng ta biết là không tin cậy, nhưng nếu đích thực là nó – thì bạn sẽ thấy rằng 99,999% cơ thể con người là khoảng không trống rỗng. Và phần 0,001% có vẻ là vật chất thì cũng là khoảng không trống rỗng, nó chỉ mang vẻ bề ngoài là trạng thái vững chắc. Nói cách khác, cơ thể con người thực sự chẳng làm bằng gì cả.Khi bạn bước ra khỏi bề ngoài phân tử là bạn bước vào đám mây hạ nguyên tử. Bước ra khỏi đám mây là bạn kết thúc tay trắng. Vậy câu hỏi đặt ra là: Cái gì là sự hư không này mà dường như mọi thứ đến từ đó – trong đó có cả lĩnh vực sinh học, cơ thể? Có phải sự hư không này chỉ là một khoảng không, hay nó có thể là trung tâm của sự sáng tạo? Hay thậm chí dường như có khả năng là tự nhiên đi tới đúng chỗ đó để tạo ra một thiên hà đầy sao, hay một cơn mưa nhiệt đới, hay một cơ thể con người để tạo ra một suy  nghĩ? Bởi vì rốt cục thì suy nghĩ là gì nếu không phải là sự dao động của năng lượng và thông tin? Chúng ta đã quá quen với sự trải nghiệm những suy nghĩ  theo các thuật ngữ nói và được kết cấu ngôn ngữ, và chúng ta cho rằng suy nghĩ phải là một hiện tượng đơn thuần của con người. Thực tế là nếu chúng ta quan niệm các suy nghĩ như thông tin và năng lượng thì đó có thể là hoạt động cơ bản của bản thân vũ trụ: suy nghĩ của con người chỉ là sự tập trung khu biệt năng lượng và thông tin trong một vũ trụ sống động đầy thông tin và năng lượng. Cũng tương tự như vậy, các suy nghĩ này là các sự việc lượng tử trong cùng lĩnh vực hợp  nhất, đồng thời nghĩ rằng suy nghĩ là để tạo ra phân tử. Các suy nghĩ có thể là các sự việc lượng tử tự biến đổi thành các sự kiện không gian/thời gian. Nhà thơ vĩ đại Sufi là Rumi – người đã sống ở vùng Trung Đông khoảng 1000 năm trước đã từng nói: “Chúng ta quay tròn ra khỏi sự hư không, gieo rắc các ngôi sao như những hạt bụi… Hãy nhìn những thế giới này, quay tròn ra khỏi sự  hư không”

phattriencanhan.org/vat-ly-luong-tu-va-y-th... - Translate this pageShare


Read more ...

Ngô Bảo Châu và hạnh phúc



Trong cuộc đời mình, mỗi chúng ta thường xuyên phải đối mặt với lựa chọn : tiếp tục bấu víu vào những kế hoạch còn dang dở hay là buông cho nó trôi đi theo dòng chảy của thời gian. Duy trì cái blog Thích Học Toán là một trong những chuyện như thế.
Có bao nhiêu thứ với ta là gắn bó nhưng ta vẫn phải coi nó như vĩnh viễn thuộc về miền của ký ức. Sức có hạn, nếu trái tim không để những thứ nặng nề ở lại phía sau thì đôi chân làm sao mà “rảo bước với thời gian”.
Nhưng tình thân của nhiều bạn đọc với blog Thích Học Toán đã làm cho người coi chùa ấm lòng. Hôm nay blog được mở lại để đáp lại cái tình đó. Nhưng chúng ta sẽ giữ gìn để nó không lại trở thành một hòn đá níu bước chân ta.
Sổ tay Thích Học Toán không nhận nhận xét của độc gỉả. Quả cũng hơi tiếc vì nhận xét của độc giả là phần thưởng lớn nhất cho người viết blog. Nhưng có một số bạn đọc nhầm lẫn giữa nhận xét và tranh cãi, còn chủ blog thì không thích tranh cãi. Người khôn chỉ cần nói với nhau một lời là hiểu.
Một chuyện nhỏ dang dở khác mà cũng nhân tiện đây ta cho vĩnh viễn đi về qua khứ. Dưới đây là một bài phỏng vấn do TT Thích Nhật Từ đề nghị cho báo Đạo Phật ngày nay. Không biết vì lý do gì mà cuối cùng hình như không được in. Chép lại đây có lẽ là thích hợp nhất. Dưới đây là toàn văn bài phỏng vấn, ĐPNN (Đạo Phật ngày nay) đặt câu hỏi, NBC (Ngô Bảo Châu) trả lời. 
Đính chính : Bài phỏng vấn này đã được đăng trên ĐPNN số 9.
**********
ĐPNN: Sau khi được bổ nhiệm là giám đốc khoa học của Viện nghiên cứu cao cấp về Toán từ ngày 9-3-2011, được biết đây là mùa hè đầu tiên, GS làm việc tại Việt Nam. Với cương vị này, trách nhiệm và chiến lược của GS trong việc phát triển toán học tại nước nhà ra sao? Những khó khăn nếu có?
NBC: Chào thầy Thích Nhật Từ. Vâng thưa thầy, hè năm nay Viện nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM) đã có những hoạt động khoa học đầu tiên. Bên cạnh việc cùng nhau tìm hiểu một số vấn đề toán học ít được nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi cố gắng tạo ra một nếp làm việc cho những hoạt động khoa học khác của VIASM sau này. Tất nhiên là vạn sự khởi đầu nan, nhưng tôi rất hy vọng VIASM sẽ là một nguồn sức sống mới cho toán học Việt Nam.
ĐPNN: GS có phải là Phật tử? Việc tìm hiểu về đạo Phật của GS thế nào?
NBC: Gia đình tôi theo Phật nhưng tôi không phải là phật tử theo nghĩa toàn vẹn nhất, mặc dù có lẽ văn hóa Phật giáo có thấm sâu vào con người tôi như nhiều người Việt nam khác.
ĐPNN: Đạo Phật đã ảnh hưởng thế nào đối với cuộc sống của GS?
NBC: Có lẽ đó là sự nhận thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống của con người cũng như của mọi sinh linh từ đó dẫn đến sự trân trọng cuộc sống của người khác và của chính mình.
Có lẽ đó còn là một thái độ tương đối bình thản trước mọi biến cố của cuộc sống. Thường thì người ta đạt được sự bình thản này sau khi một phần lớn của đời mình đã trôi qua, văn hóa Phật giáo có thể giúp ta bình thản ngay cả khi một phần lớn của cuộc đời có lẽ còn ở phía trước.
Có lẽ sự nhận thức về tính vô thường của thế giới và của cả con người đã giúp tôi rất nhiều để có một sự cân bằng trong cuộc sống. Một bên ta không thể buông xuôi trách nhiệm với xã hội, với những người thân thiết, với bản thân mình, một bên ta vẫn hiểu rằng cái quan trọng ngày hôm nay, ngày mai có thể sẽ không còn quan trọng nữa.
ĐPNN: Giáo sư đã từng đọc kinh Phật? Nếu có thì đó là kinh gì? Ảnh hưởng của bài kinh đó đối với cuộc sống của giáo sư thế nào?
NBC: Tôi được đọc kinh phật mỗi lần đến thăm bà ngoại tôi. Ngoại tôi tụng kinh hàng ngày. Khi còn là sinh viên tôi có đọc một số sách về lịch sử Phật giáo.
Trải nghiệm quan trọng nhất của tôi với Phật giáo là lần đi thăm di tích Ajanta bên Ấn độ. Đó là những hang đá nơi những người tu hành đã sống từ thế kỷ thứ sáu. Những bức bích họa rất lớn trên vách hang miêu tả cuộc đời của Thích Ca Mầu Ni đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt.
ĐPNN: Là một nhà khoa học toán, giáo sư đánh giá thế nào về các điều minh triết Phật dạy về con người và vũ trụ?
NBC: Triết lý Phật giáo cho con người một nhân sinh quan rộng rãi, giải phóng nhiều định kiến. Đấy là một tố chất cơ bản của nhà khoa học.
Có những nhà khoa học có uy tín đi tìm những điểm chung giữa triết lý tôn giáo trong đó có Phật giáo và Cơ đốc giáo và khoa học hiện đại. Cá nhân tôi thấy những cố gắng này có phần khiên cưỡng.
ĐPNN: Khi tự đặt cho mình biệt hiệu “Hòa thượng Thích Học Toán” hẳn giáo sư đã thể hiện phần nào thiện cảm với Phật giáo, cụ thể hơn là tu sĩ Phật giáo? Ý tưởng của việc chơi chữ này là gì?
NBC: Công việc nghiên cứu khoa học có nhiều điểm chung với cuộc sống của những nhà tu hành. Nghiên cứu khoa học cơ bản cũng có tính thoát ly khỏi cuộc sống trần tục. Tôi chọn biệt danh “Hòa thượng Thích Học Toán” để cho trò chuyện toán học trên blog được thân thiện hơn, để câu chuyện toán học thoát ra khỏi hình thức phổ biến khoa học. Sau khi một số Phật tử có nhắn với tôi không nên đùa với chức danh Hòa thượng, tôi cũng không dùng nó nữa. Tôi cũng không có ý tạo thêm những sự bực bội không cần thiết.
ĐPNN: Gần đây, Giáo sư đặt trang blog cá nhân (thichhoctoan.wordpress.com) ở chế độ riêng tư, một hình thức của đóng cửa đối với độc giả quý mến giáo sư? Đâu là lý do cho việc này?
NBC: Sau sự kiện giải thưởng Fields, blog của tôi có khá nhiều người đọc. Tôi nhận ra rằng cách viết hài hước mà tôi chọn cho blog cũ nay không còn phù hợp nữa. Tôi vẫn giữ ý định mở lại một trang blog mới và viết lại nhiều bài theo một phong cách nghiêm túc và có hệ thống hơn.
ĐPNN: Là người sống và làm việc tại Pháp, trung tâm của văn minh châu Âu và hiện nay giảng dạy tại đại học Chicago, Hoa Kỳ, giáo sư có suy nghĩ gì về mô hình giáo dục đại học Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa?
NBC: Có một khoảng cách khá lớn về chất lượng giữa giáo dục đại học ở Việt Nam và ở các nước phát triển. Vì dư luận xã hội đã quá tiêu cực với chất lượng giáo dục cho nên tôi thấy không cần phân tích thêm. Cái cần và khó hơn nhiều là tìm ra giải pháp. Có lẽ giải pháp tốt nhất là để cho mỗi ngôi trường, mỗi người thầy tìm ra giải pháp riêng cho mình. Nói cách khác là trường đại học và các giáo sư đại học cần được chủ động hơn trong chương trình và qui chế tuyển sinh. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần làm thêm nhiều điều tra để so sách chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa các trường để dựa vào đó mà có chính sách đầu tư hỗ trợ. Những thông tin này cũng cần được công bố rộng rãi để học sinh sinh viên cũng như phụ huynh có thông tin chính xác hơn cho việc chọn trường học. Việc nới quản lý từ trung ương để tăng tính chủ động cho những người trực tiếp làm công việc đào tạo và nghien cứu có thể dẫn đến bất cập ở chỗ này chỗ khác, nhưng tôi tin vào khả năng tự điều chỉnh của cuộc sống. Sự tự điều chỉnh sẽ nhanh hơn nếu thông tin được rộng đường.
ĐPNN: Toán học có thể giúp gì cho việc quy hoạch đô thị Việt Nam? Kinh nghiệm của Pháp và Mỹ trong lãnh vực này thế nào?
NBC: Ở nước ta, việc quy hoạch giao thông trong các đô thị vẫn dựa nhiều vào cảm tính, nên hay thay đổi. Những hệ thống có độ phức tạp cao như giao thông đô thị thực ra rất cần được thử nghiệm và thiết kế dựa trên những mô hình toán học.
ĐPNN: Là người lập gia đình và có con ở tuổi đôi mươi, đâu là bí quyết duy trì “hạnh phúc gia đình” của giáo sư sau gần 20 năm chung sống?
NBC: Thưa thầy, cuộc sống gia đình nào cũng có lúc sóng gió. Để sống với nhau, mỗi người cần hiểu những người mình yêu để mà sống vui với chính con người họ. Mỗi gia đình còn có một động lực rất lớn để tồn tại đó là con cái và việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái.
ĐPNN: Tháng bảy trong Phật giáo là mùa báo hiếu công ân sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ như hai vị Phật trong nhà, Gs có thể chia sẻ vài kỷ niệm đẹp mà hai đấng sinh thành đã giành cho Gs thời trẻ?
NBC: Cha mẹ tôi luôn dành hết cho tôi mọi sự yêu thương, ưu tiên việc nuôi dưỡng giáo tục tôi hơn tất cả. Vợ chồng tôi cũng cố gắng làm như vậy với các con, nhưng chắc chắn là không thể được như ông bà.
Khi còn nhỏ, mẹ tôi dậy tôi rằng xấu nhất là nói dối. Bây giờ tôi vẫn tin và cũng dậy các con tôi như thế.
ĐPNN: Với vai trò làm cha của ba đứa con hiếu thảo và thành công, xin GS chia sẻ kinh nghiệm làm cha của mình?
NBC: Tôi không nghĩ các con tôi đặc biệt thành công hoặc là mình là một người bố kiểu mẫu để có thể tự tin chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Công việc bận rộn không cho tôi có nhiều thời gian để gần gũi với con cái như tôi mong muốn mà thời gian là cái mà trẻ nhỏ cần nhất ở cha mẹ. Có lẽ người lớn nên bớt thời gian xem TV, lướt web, tụ tập bạn bè để có thêm thời gian chơi với con, học với con, cùng đọc sách với con. Những cái đó có ích cho trẻ hơn là việc bỏ tiền ra cho con đi học thêm hay những khóa rèn luyện “kỹ năng sống”.
ĐPNN: Theo GS, hạnh phúc là gì? Và đâu là cách thức giáo sư giữ gìn và phát triển hạnh phúc có được?
NBC: Đối với tôi, cái hạnh phúc lớn nhất là cảm giác mình đang sống. Cảm giác đó bao gồm cả vị ngọt và vị đắng. Nó xuất phát quan hệ với những người thân thiết, bạn bè, công việc và xã hội, từ miếng cơm ta ăn, từ miếng nước ta uống, từ không khí ta đang thở.
Để có hạnh phúc, có lẽ không có cách nào khác là yêu cuộc sống như chính nó. Để bất hạnh, có lẽ không có cách nào tốt hơn là đi đuổi theo những ảo ảnh.
ĐPNN: Theo GS, “để sống một cuộc sống có ý nghĩa,” người ta phải làm gì?
NBC: Tôi e mình không đủ thông tuệ để trả lời câu hỏi này của thầy một cách đầy đủ.  Phần nhỏ của câu trả lời mà tôi biết là để sống một cuộc sống có ý nghĩa, ta nên tránh làm những việc vô nghĩa.

ngobaochau.wordpress.com/.../những-gi-dẹp-dẽ-n... 

Read more ...

Mẹ chồng nàng dâu


Thích Trí Siêu
Có một cặp vợ chồng mới cưới nhau và người vợ theo phong tục tập quán phải về nhà chồng. Chẳng may người chồng còn mẹ, và ngay từ đầu mẹ chồng nàng dâu đã đụng độ với nhau về việc chăm sóc gia đình nhà cửa. Trước khi cưới vợ, mọi việc ở nhà đều do mẹ chồng cai quản, nay nàng dâu mới về thay đổi mọi việc sắp xếp trong nhà làm mẹ chồng rất khó chịu. Dần dà sự đụng độ trở nên căng thẳng hơn và hai người không thể nhìn mặt nhau. Nàng dâu thì xem mẹ chồng như một phù thủy ác độc, còn mẹ chồng thì thấy nàng dâu là đứa hỗn láo không biết kính nể người lớn.
Từ sự không nhìn mặt đi tới thù ghét và nàng dâu quyết định tìm cách loại bà già chồng khó chịu này ra khỏi nhà.  Nàng tới gặp một vị lang y xin mua thuốc độc để bỏ vào thức ăn ám hại mẹ chồng.
Vị lang y không chịu bán mà hỏi lý do tại sao? Nàng dâu kể lể sự việc bị mẹ chồng ăn hiếp bắt nạt và không thể sống chung với bà nữa. Nghe xong câu chuyện, vị lang y đồng ý bán cho nàng thuốc độc nhưng ông nói: "Tôi đồng ý bán, nhưng nếu tôi đưa cho cô loại thuốc độc cực mạnh uống vào chết liền thì mọi người sẽ nhận ra ngay cô là người ám hại bà, và họ sẽ truy ra tôi là người đưa thuốc, như vậy thì cả hai sẽ bị bại lộ.  Do đó tôi chỉ đưa cho cô một loại thuốc độc nhẹ, uống nhiều lần cho nó ngấm từ từ, và bà ấy sẽ không bị chết liền".
Ông còn dặn dò thêm khi nàng lén bỏ thuốc độc hại mẹ chồng thì phải thay đổi thái độ, cư xử thật lễ phép, ngoan ngoãn với bà. Ông nói: "Cô nhớ mỉm cười khi bưng cơm cho bà, khen bà nấu ăn ngon, và hỏi bà có cần cô phụ giúp gì không?  Cô nhớ luôn khiêm cung và dễ thương với bà.  Làm như vậy thì sẽ không ai nghi ngờ là cô ám hại bà".
Nàng dâu đồng ý và hý hửng đem lọ thuốc độc về nhà. Ngay tối hôm đó, nàng bắt đầu bỏ thuốc độc vào thức ăn của mẹ chồng rồi lễ phép bưng lên cho bà.  Sau vài ngày được đối xử cung kính lễ phép, bà mẹ chồng bắt đầu suy nghĩ lại về nàng dâu, "coi bộ nó cũng không đến nỗi hỗn láo như mình tưởng". Vài ngày sau, bà nghĩ tiếp "có lẽ mình đã nghĩ oan về nó".  Và từ từ bà thay đổi thái độ, đối xử dễ dãi hơn và biết khen nàng làm cơm ngon và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ.  Bà còn biết nói đùa và kể vài ba chuyện tào lao với nàng dâu nữa.
Khi thái độ và cư xử của mẹ chồng thay đổi thì đương nhiên ảnh hưởng tới nàng dâu. Nàng cũng bắt đầu suy nghĩ lại về mẹ chồng, "coi bộ bà già chồng cũng không đến nỗi ác như mình tưởng. Kể ra bà ấy cũng dễ thương đó chứ".
Sự việc qua lại như vậy được một tháng thì hai người trở nên quý mến nhau như hai người bạn. Nàng dâu quên hẳn việc bỏ thuốc độc vào thức ăn của mẹ chồng.  Rồi một hôm, nàng bỗng nhớ lại và giật mình lo ngại vì ý thức mình đã bỏ khá nhiều thuốc độc vào mỗi bữa ăn của bà.
Thế rồi nàng hối hả tìm đến vị lang y và nói: "Trời ơi!  Tôi đã lầm lẫn.  Mẹ chồng của tôi thật ra là người dễ thương.  Đáng lẽ tôi không nên cho bà uống thuốc độc. Ông có cách nào giúp tôi không?  Ông có thuốc giải độc không?"
Vị lang y ngồi yên lắng nghe nàng bày tỏ xong, ông nói: "Rất tiếc tôi không thể giúp cô, vì tôi không có thuốc giải độc".
Nghe nói như vậy, nàng quá thất vọng, bật khóc và đòi tự sát.
"Tại sao cô lại muốn tự sát?", vị lang y hỏi.
Nàng đáp: "Bởi vì tôi đã bỏ thuốc độc ám hại một người quá tốt và dễ thương.  Tôi đã làm một việc ác độc nên tôi phải tự sát để chuộc tội".
Vị lang y ngồi yên lặng chốc lát rồi phá lên cười.
Nàng ngạc nhiên hỏi: "Làm sao ông có thể cười trước một sự việc đau lòng như vậy?"
"Tôi cười vì sự thật không có gì phải lo ngại", vị lang y nói, "không có thuốc giải độc bởi vì tôi chưa từng đưa cho cô thuốc độc.  Gói thuốc mà tôi đưa cho cô lúc trước chỉ là một loại thuốc bổ tầm thường".
Nàng dâu vỡ lẽ ra là vị lang y đã khéo dùng phương tiện chữa cho cô và mẹ chồng khỏi bệnh "thù ghét nhau". Nàng cảm động cúi đầu cám ơn ra về, lòng nhẹ nhõm.
Căn bệnh thù thét giữa mẹ chồng nàng dâu hầu như xảy ra thường xuyên, nhất là ở Á Đông, khi nàng dâu phải về chung sống với gia đình chồng.  Trên phương diện tâm lý, đó là chuyện bình thường, bởi vì cả hai người đàn bà đều tranh nhau một người đàn ông nên xem nhau như thù địch và từ đó có những ý nghĩ xấu về nhau.  Do nghĩ xấu về nhau nên không ưa nhau. Do không ưa nhau nên đưa đến hành động, cử chỉ không hòa ái. Do cư xử bất hòa, khiếm nhã nên càng ghét nhau và củng cố thành kiến xấu ban đầu về nhau, và cứ thế sự ghét nhau càng leo thang.  Đây là tiến trình "Ý, Tình, Thân"(1), tức là ý nghĩ đưa đến tình cảm, tình cảm dẫn đến hành động.
Nếu vị lang y bảo nàng dâu đừng nghĩ xấu hay đừng ghét mẹ chồng nữa thì chắc chắn là cô không nghe.  Nay ông ta khéo léo dụ cô nàng thay đổi thái độ cư xử với mẹ chồng. Đó tức là cô sửa hành động (Thân), nhờ cô tu sửa Thân, nên mẹ chồng đổi thái độ. Nhờ cả hai đổi thái độ, thì Ý được thay đổi, tức là không nghĩ xấu về nhau nữa. Nhờ Ý thay đổi nên Tình cũng thay đổi, tức là chuyển thù thành bạn.
http://www.daophatngaynay.com/vn/Tap-chi-Dao-Phat-Ngay-Nay/Bai-viet-chon-loc/8223-Me-chong-nang-dau.html
Read more ...

THỞ và THIỀN


Phùng Kim Yến

Đầu Xuân nói chuyện thở nghe cũng hơi buồn cười.
Buồn cười vì nó bình thường quá, ai mà không phải thở. Không khí là thức ăn miễn phí dành cho muôn loài, chẳng phải nhọc công tìm kiếm, tranh dành.
Ấy mà cái không khí này đột nhiên trở nên quý hiếm biết bao, khi lần đầu tiên trong những ngày nghỉ Tết dài nhất, đến chín ngày, tôi được sống, được thở tương đối “có chất lượng”.
Từ buổi chiều cuối cùng của năm cũ, phố xá người xe bổng nhiên thưa thớt hẳn, khói bụi hình như cũng bay đi đâu hết, sự yên tĩnh, thoáng mát tràn ngập trên những con phố ngày thường vốn xôn xao, chộn rộn người mua, kẻ bán, ăn uống, tấp nập ồn ào.

Sống trong một thành phố đông dân nhất nước, ô nhiễm môi trường cũng thuộc loại hàng đầu vậy mà, ngạc nhiên quá, những ngày đầu năm, như được tặng món quà bất ngờ, tôi được thở không khí trong lành, yên tĩnh, được đi bộ thoải mái, lề đường không hàng quán lấn chiếm, đi xe không cần khẩu trang che mặt.
Thành phố Hồ Chí Minh thường đề cao chỉ tiêu phát triển kinh tế, lâu nay, hình như quên đi chỉ tiêu hạnh phúc của công dân mình.
Hạnh phúc này thật ra cũng đơn giản, quá đơn giản. Đó là được thở một bầu khí quyển sạch, người dân không phải hàng ngày, hàng phút, hàng giây hít khí thải, khói xe, bụi bặm mịt mù để rồi hàng năm phải đi “check” xem hai lá phổi nó có “vấn đề” không?
Các bệnh nhân đi khám sức khỏe, một trong những xét nghiệm thường được chỉ định là “ chụp X quang phổi ”. Thế mới biết cái sự thở và chất lượng sự thở nó quan trọng như thế nào.
Tôi đã từng biết một cặp đôi chia tay nhau vì một phút cao hứng chàng đã nói với nàng : “ Bỏ em thì được chứ bỏ thuốc lá thì không”.
Bây giờ anh chàng có ngồi lim dim thả hồn theo khói thuốc và ly rượu, mượn thơ Quang Dũng để thương tiếc:Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa, đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ, thoáng hiện em về trong đáy cốc, nói cười như chuyện một đêm mơ, thì nàng cũng đã "cao bay xa chạy."
Có lẽ cô này còn trẻ, xem sức khỏe là vàng, ra đường bị hít khói xe, về nhà hít khói thuốc lá của ông chồng nghiện, sống như thế chỉ có ”tan nát” tình yêu vì ô nhiễm, vì cãi nhau, ( cãi nhau cũng là một thứ ô nhiễm !).
Bởi thế ngày Tết ta chúc nhau sức khỏe dồi dào, phước như Đông hải, thọ tựa Nam sơn. Cái chữ Thọ này xem chừng mong manh lắm nếu ta cứ tiếp tục được thở kiểu : “hít vào khói, thở ra bụi” như thế này.
Đức Phật có lần giảng trong một thời kinh ; Ngài hỏi các đệ tử đời người dài khoảng bao lâu, có người nói 100 năm, có người nói vài ba chục năm, riêng chỉ có một vị nói đời người dài bằng một hơi thở. Đức Phật trả lời : đúng thế, đời người chỉ dài bằng một hơi thở. Bởi thở vào mà không thở ra thì xem như …” tiêu tùng “.
Cho nên, ta có thể quên ăn, quên ngủ nhưng “quên” thở là chết ngay tức khắc.
Một nhà “sáng tác “ khuyết danh có một bài vè kiểu “ Bút tre” nói về cái sự thở của con người, nghe cũng vui vui và chí lý.
" Trăm năm trong cõi người ta
Ai ai cũng phải thở ra hít vào
Trăm năm trong cõi người nào
Ai ai cũng phải hít vào thở ra
Xa xa như nước Cuba
Người ta còn phải hít ra thở vào
Gần gần như cái nước Lào
Người ta cũng phải hít vào thở ra
Nói chung trong cõi người ta
Bắt buộc là phải thở ra hít vào "
Nghe bài vè, nhớ đến lời bài hát của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn : “ Hãy sống giùm tôi, hãy thở dùm tôi ”. Đối với nhạc sỹ, có lẽ được sống và được thở là điều may mắn và hạnh phúc. Ông muốn gửi một lời nhắn nếu ông và “những ai” chẳng may không còn có mặt trên cõi đời này thì xin mọi người hãy tiếp tục sống, tiếp tục thở dùm cho họ. Hiểu như thế không biết có đúng ý ông không ?
Tiếp tục thở, tiếp tục sống bởi “ thân người khó được ”, bởi trong sáu nẻo luân hồi không dễ gì được sinh và tái sinh làm người. Thực ra sống trong cõi nhân gian chen chúc 7 tỷ người này cũng không dễ dàng, cũng mỏi mệt lắm chứ.
Đôi lúc tôi nghĩ “ tầm xàm ” : “ đời là bể khổ, qua được bể khổ chắc là qua đời ”.
Nhưng rồi càng sống càng thấy cuộc đời không phải chỉ toàn khổ. Vị đạo sư vĩ đại, đức Phật ngay trong bài Pháp đầu tiên Ngài đã nói về Tứ diệu đế tức là Bốn sự thật về khổ, nguyên nhân khổ, trạng thái không còn khổ và con đường thoát khổ.
Có nghĩa là cuộc đời cũng vui, cũng đáng sống vì được làm người là có cơ hội thưởng thức những giá trị của cuộc sống, thực hiện những điều tốt đẹp, lợi ích cho chính mình và cho người khác đồng thời khi đối đầu với những khổ đau, khó khăn,thách thức, đức Phật đã chỉ cho ta các phương pháp đối trị.
Một trong những phương pháp đối trị, thật là kỳ diệu thay, đó chính là “thở ”.
Ngày nay người học Phật đều biết đến rất nhiều bài kinh đức Phật nói về hơi thở.

Kinh “ Quán niệm hơi thở ” ( anapanasatti sutta) là phương pháp hành thiền cơ bản trong đó ta tập trung tâm và ý ( chánh niệm ), quan sát trên một đề mục duy nhất đó là hơi thở vào và hơi thở ra. Thở là một động tác sinh lý tự nhiên, nó diễn ra liên tục không ngưng nghi, chúng ta không cần phải tạo ra hay tưởng tượng, thở là thực tại có thật, sống động cho nên bất cứ lúc nào ta quay về với nó, chú ý đến nó, nó có mặt ngay.
Nói về thiền thì không biết bao nhiêu cho đủ và cho đúng. Chỉ người hành thiền mới hiểu ích lợi và kết quả của việc hành thiền, người tập thở, quán niệm hơi thở mới biết từ hơi thở họ đã chuyển hóa, thay đổi nhận thức, điều phục thân tâm kỳ diệu như thế nào.
Ngày tôi mới bước đầu mon men học Phật pháp, tôi thấy cái việc hành thiền, quán chiếu là “ cái gì đó ” thật là cao siêu, khó hiểu, khó thực hành chắc chỉ dành cho những ai “ tu cao ”, những người xuất gia có chủng tử sâu dày, đã rèn luyện từ muôn kiếp trước.
Thế rồi gặp vị thiền sư dạy cho phương pháp hành thiền mà căn bản bước đầu chỉ là thở, chánh niệm trên hơi thở, tập trung vào đề mục là hơi thở, trước hết là an định tâm giúp cho tâm vốn như con khỉ, ý nhu con ngựa sẽ không chạy lung tung.
Ngồi ở Việt Nam mà tâm ý chạy tuốt qua bên Mỹ, không biết ở bên đó con đã đi làm chưa. Hoặc ngồi trước tượng Phật, mà tâm nghĩ đến cái nhà bếp, không biết hôm nay đi chợ mua gì ăn, rồi từ cái chợ nó chạy đến nhà cô em gái, nghe nói cổ bị bệnh mới từ bệnh viện về. Rồi từ bệnh viện Việt-Pháp nhảy qua phòng khám đa khoa Việt -Mỹ, nhớ lại cái hồ sơ bệnh án, lo lắng hoang mang không biết khi nào bác sỹ đổi thuốc, khi nào mình hết bệnh.
Rồi ai làm mình buồn, tự nhiên nhớ lại và …buồn tiếp.
Thật là tâm nó dắt mình đi kinh khủng quá… hết chỗ này đến chỗ nọ, hết chuyện nọ xọ chuyện kia. Bởi vậy Sư phụ tôi dạy “biết vọng không theo” là thế.
Quan sát hơi thở, cột tâm vào hơi thở, chỉ biết có hơi thở, nhận biết hơi thở vào mát, hơi thở ra ấm, thở dài, thở ngắn, thở mau, thở chậm, sự tập trung này lúc đầu cũng cam go. Chân đau, vai mỏi, ý chạy lung tung, những cảm xúc tiêu cực xuất hiện,tạp niệm trổi dậy, nhưng mặc kệ nó, cứ để nó đến rồi nó đi, tiếp tục thở, và nhận biết mình đang thở.
Bạn sẽ được gì ích lợi gì khi ngồi và thở như thế này ? Kinh nghiệm có thể giống nhau, nhưng đạt được cái gì đó ích lợi, hoặc không được cái gì cả, thì như đã nói mỗi người là một “ tiểu vũ trụ “, chỉ ai uống nước mới biết nước nóng lạnh.
Riêng tôi, sau một thời gian thực tập quán niệm hơi thở, tâm an định, thân nhẹ nhàng, ít khi bấn loạn, xôn xao hay bị cuốn hút vào những xúc cảm, biểu hiện bên ngoài của sự vật, của tình huống.
Khi tâm an định, rỗng rang, bớt đi tạp niệm, trí nhớ sẽ tăng cường, tuệ giác vô thường khai mở, nhận biết cuộc sống vô thường, thân mạng vô thường, ngắn như một hơi thở, mọi điều xảy ra cho ta, tốt xấu, hay dở đều trở nên bình thản, nhẹ nhàng.
Sự thay đổi nhận thức và thái độ sống trong một thế giới hỗn loạn này rất cần thiết. Không thay đổi được thế giới, một đất nước, một thành phố, tốt nhất nên thay đổi chính bản thân ta.
Ngày mai, và “nhiều năm sau nữa”, có thể cư dân thành phố tiếp tục hít thở những làn khói xe, bụi bặm, khí thải dài dài, tôi sẽ làm gì, bạn sẽ làm gì?
Đầu năm mới, tôi đang “ hạ quyết tâm ” sẽ thay đổi thói quen, thức dậy sớm hơn, khi mặt trời chưa ló dạng để có thể mở tung cửa sổ, đi bộ trên con phố “ thị tại môn tiền náo ”, để được tận hưởng sự yên tĩnh dù ngắn ngủi và được hít thở bầu không khí “có chất lượng”.
Tóm lại, tôi sẽ tiếp tục Thở và Thiền.
Phùng Kim Yến

http://www.erct.com/2-ThoVan/Nam_Yen/ThovaThien.htm
Read more ...

Ta là ai


Ai kia mới vừa tới lui, qua lại, ăn nói xử sự khéo léo mọi người ưa mến, giờ đây tắt thở, nằm đó, những cái xử sự khéo léo, khôn ngoan lịch duyệt đâu rồi? Nếu không mai táng kỹ lưỡng, mà để chán chường chừng năm ba ngày trên mặt đất thì mọi người đi ngang qua đó phải bịt mũi. Vô lý làm sao! Bây giờ chúng ta ăn nói khôn ngoan, xử sự khéo léo, làm việc giỏi giang, khi tắt thở nằm sáu bảy ngày ai thấy cũng ghê sợ. Vậy cái khối xương thịt nằm sáu bảy ngày ai thấy cũng ghê sợ đó có phải là ta không?
Read more ...